Phong ngồi im trong căn phòng tối đã tắt hết đèn điện giữa lòng thành phố. Chỉ có ánh trăng vàng bàng bạc dọi qua cửa kính trong suốt, hắt từng vệt sáng lên sàn nhà. Những khoảng sáng tối im lìm đều như đang nhìn chòng chọc vào Phong. Đối mặt. Từng thớ da thịt tê rân rân như những cơn sóng điện nối nhau trườn lên. Nỗi buồn từ đâu hắt tới dội thẳng vào ý chí của Phong. Trời ơi, anh đang làm gì thế này. Anh đang muốn rũ bỏ sự hèn hạ của mình sang Phương sao.
Anh yêu Phương, một nhà văn trẻ mộng mơ lãng mạn. Những cuộc hành quân xa làm anh bắt đầu cảm thấy mắt mờ chân mỏi. Những chiều khói bay trên nóc bếp, anh nhớ nhà, anh nhớ Phương. Anh ích kỷ và hèn hạ làm sao. Anh bỗng sợ. Và anh nghĩ tới những chiều vợ chồng con cái quây quần bên nhau, cùng nhau chăm sóc gia đình. Ánh trăng hắt vào tờ đơn trên tay anh. Thứ ánh sáng thanh khiết của đất trời đang chòng chọc nhìn vào dòng chữ xin ra khỏi ngành. Không có điện, ánh trăng càng sáng hơn, như đang nhìn anh, như đang chất vấn. Một lời chất vấn nghiêm khắc đến từ lý tưởng vẫn đang cựa quậy trong anh, giữa những yếu hèn đang lúc nhúc vẫy đạp.
Ánh trăng soi vào trong anh những ngày cùng đồng đội lăn mình trong lũ. Ngón chân gầy bấm quặt xuống nền đất lồi lõm, lẫm đẫm, gồng mình đi qua cả đoạn đường trơn trượt. Bao vây là nước lũ đỏ ngầu, chỉ thấy ngọn cây, mái nhà, chẳng có ai, chẳng có người ở đó. Cái đáng sợ nhất không phải là cái chết, không phải là sẵn sàng xông lên phía trước, mà là luôn sẵn sàng xông tới khi đã biết đó có thể là giây phút cuối cùng của sự sống, là da thịt sẽ đau, máu đỏ sẽ chảy. Thần kinh căng lên, vượt qua nỗi sợ hãi bình thường của cảm giác con người, để làm tiên phong, để làm rào chắn.
Bóng tối hoạ lên trước mắt anh hình ảnh người đàn bà quét lá trong hun hút bóng chiều. Chị là vợ của một người đồng đội đã mất. Hôm đơn vị về thắp hương cho anh, Phong thấy chị còm cõi bên vườn. Chị dồn lá thành từng đụn rồi đốt, một làn khói trắng mỏng lơ lửng bay quyện trong sương. Sắc xanh của lá trong màu khói mơ lãng đãng và nụ cười hiền lành của người đồng chí hiện ra như đang nhìn anh, thâm trầm, lặng lẽ. Đời người, đời lá như một vòng tuần hoàn muôn thưở. Một giọt nước mặt lặng lẽ rơi xuống…
Ánh trăng vàng dọi lên tường, vô tình hay hữu ý chiếu sáng lên bức tường trước mặt anh. Làm sáng lên ngôi sao vàng năm cánh trên chiếc quân hàm màu đỏ và tấm áo chiến trận có 16 vết đạn. Ngôi sao vàng chói lên một cách kỳ lạ, chói vào mắt anh, chói vào lòng anh. Qua ánh trăng mờ, hình ảnh một người lính già hiện ra trước mặt làm anh bất giác giật mình:
- Cha?
Ông Bạo khe khẽ trả lời:
- Ừ, cha đây.
Thế rồi, chỉ có ánh trăng và những cơn gió nồm mát rượi trong đêm khuya thanh vắng, hai cha con, hai thế hệ người lính ngồi đối diện nhau trong đêm.
- Đã mấy năm rồi - ông Bạo nói – từ khi con lớn, trở thành quân nhân, đây là lần hiếm hoi cha được ngồi nói chuyện cùng con.
- Dạ - Phong từ tốn trả lời – Con, con có...
- Cha biết, thủ trưởng của con đã nói tình hình cho cha biết.
- Hôm cha ốm nặng, con không về chăm sóc cha. Mưa bão giăng trời, mái nhà này chỉ còn mình cha cô độc. Mẹ đã mất, anh chị đi xa. Chỉ mình cha với bóng tối, mất điện, cây gãy, giông lốc. Con đóng quân ở Đông Hà, cũng là gần cha, mà không hề gần. Lúc đó, con còn đang cứu viện cho nhân dân.
- Cha biết.
- Đám cưới của con và Phương hoãn lại nhiều lần. Cũng vì con không muốn Phương một mình gồng gánh hết mọi việc mà không thể chia sẻ đỡ đần. Con cảm thấy mình phải chọn lựa, hoặc là cha và Phương, hoặc là quân đội, là nhân dân.
- Cha biết.
- Cha?
Người lính già - cha của Phong - ông Bạo, người chiến sỹ năm xưa bỗng nghiêm nét mặt nhìn con trai mình. Và bằng tất cả ngữ khí của một người quân nhân, ông nhìn thẳng Phong và nói bằng giọng chắc nịch:
- Tấm áo xanh, quân hàm đỏ. Đó là lý tưởng, là vẻ vang, là niềm kiêu hãnh của cuộc đời, của tuổi trẻ.
Rồi ông đứng dậy, bờ vai già nua không làm mất đi vẻ mạnh mẽ, vững chải, kiêu hùng của người lính trưởng thành trong quân đội. Ông tháo tấm kính trên tường, đem xuống chiếc áo có 16 vết thủng do đạn bắn, rồi nắn nót cầm trong tay chiếc ve áo màu đỏ đến trước mặt con trai mình. Ông nhìn Phong bằng ánh mắt của một niềm tin tưởng sau cùng, của một người đang đi về phía cuối cuộc đời. Như một lời trăn trối, như một di nguyện đặt vào trái tim kẻ kế thừa. Ông nói bằng giọng run run, đôi bàn tay gầy guộc mân mê từng đường kim mũi chỉ trên tấm áo cũ. Lời ông nói hòa vào ánh trăng trong vắt, là bài đồng dao về câu chuyện thần thoại của một thời oanh liệt máu và hoa. Phong lắng nghe như nhìn thấy từng thước phim hiển hiện ra trước mắt.
Năm 1968 cha Bạo bị bắn chết. Thằng bắn cha Bạo chính là thằng Quý, đồn trưởng đồn Cổ Hiền. Hắn độc ác ngang nhiên hành hạ dân vô tội, bắt dân gặt lúa nộp về đồn. Hắn ra lệnh cho bọn bộ xạ, lý trưởng cướp trắng ruộng đất của người dân. Cha Bạo nổi dậy tổ chức dân làng biểu tình và bị bắt, hắn giáng ba nắm đấm vào mặt cha, con mắt trái sưng vù, hai cái răng cửa rụng cùng một lúc. Cha Bạo phun miệng máu đỏ tươi vào mặt hắn và lập tức lên một cú đá song phi, móc hàm. Hắn ngã lăn xuống đất, mồm ấm ứ, tay trái chỉ vào mặt cha, còn tay phải bóp cò khẩu súng lục bắn sáu phát đạn liền vào cha. Hai anh em Bạo lặn dưới sông, tựa vào gốc bần, chỗ rừng sác, Bạo cắn chặt môi bật khóc rấm rứt, máu miệng máu môi hòa vào mồ hôi và nước sông Hiền nghèn nghẹn nỗi đau uất hận. Cha Bạo chết không nhắm mắt, anh Kháng không chịu được liền nhắm trúng bắn vào thằng Quý : “bùng”, hắn vật ra rống lên như bò chọc tiết, quân lính lùng sục tìm thằng bắn.
Bọn lính khiêng thằng Quý về, rồi tê-lê-phôn lên đồn Châu Thị, cho lính mai phục bờ sông và quốc lộ 1, lên đến dốc chợ huyện, quyết tâm bắt sống. Anh Kháng và Bạo chia ra hai hướng. Anh Kháng bị lọt vào vòng phục kích, địch bắn anh Kháng 11 viên đạn súng trường Mút-ca-bông, ba viên vào ngực, hay viên cánh tay trái, sáu viên kia vào bụng và thân. Anh Kháng hi sinh. Kẻ thù không cho nhận xác. Đêm hôm ấy Bạo về nhà, cắn tay chảy máu viết đơn xin nhập ngũ. Khi ấy Bạo vừa học xong lớp 10, đã trúng tuyển Đại học Y Khoa. Căn hầm lộ thiên rộng chừng 6m vuông đã chứng kiến những dòng chữ bằng máu của Bạo: “Trả thù nhà, đền nợ nước”. Mẹ Bạo ôm lấy Bạo, người phụ nữ nhỏ thó bên bờ vai chững chạc của con, một ngày mạ phải chịu hai nỗi đau lớn, chồng và con trai cả lần lượt hi sinh. Mạ già rồi, đôi mắt sâu mà sáng, da dẻ nhăn gầy mà mạnh mẽ vững chải như Thái Sơn. Mạ nói từng chữ, đôi mắt gằn lên nỗi căm thù bọn giặc cướp nước: “Các con phải biết cha mạ một đời khổ cực tăm tối. Một chữ bẻ đôi cũng không biết, nay Đảng, Cách Mạng cho sáng mắt sáng lòng. Nếu không may mạ chết thì thôi. Còn sống là mạ bám víu, đào đất, lật cỏ cho các con ăn học đến cùng. Các con quyết tâm ra trận, dù là vào chiến trường khói lửa, dù là đi học nơi xa, cũng đều là nhiệm vụ mà nhân dân và cách mạng giao phó. Nhất định phải hết sức, hết lòng, có chết cũng không từ nan. Nếu các con dám đơn sai là có tội với cha con, anh con đã ngã xuống trước mũi súng của kẻ thù”. Lời mạ dặn sáng như ánh sao trên mũ, Bạo hừng hực ý chí lên đường. Để lại sau lưng Mẹ già và quê hương.
Đêm cuối năm lặng lẽ. Đoàn quân đi ngay trong đêm, cũng im lặng như đất trời, chỉ nghe tiếng bước chân rầm rập của đoàn quân và hơi thở của đêm. Sương đêm lạnh mà trên lưng ngươi lính đẫm mồ hôi. Những vì sao nhấp nháy xa xa càng làm cho màn đên mung lung đến vô tận. Khắp nơi từ thượng nguồn sông Bến Hải, chạy dọc làng mạc đôi bờ qua Vĩnh Sơn, đến tít tắp Vĩnh Lâm, Vĩnh Thủy, Vĩnh Long, Thị Trấn Hồ Sá về Vĩnh Hòa, Vĩnh Tân, Cửa Tùng, qua Gio Hà, Gio Hải, đến Cửa Việt, đâu đâu làng mạc thôn xóm cũng trơ màu đất, toàn những hầm hố đào bới của đạn bom, không còn dáng cây ngọn cỏ. Sao bắc đẩu đã chếch về hướng tây, tiếng gà xao xác gọi canh sớm, mùi bùn đất và múi lúa mới ngày mùa bỗng thức dậy bùng lên trong tâm khảm hình dáng mẹ đang lúi húi dưới chái bếp lo nấu sắn sáng và nấu cháo cám cho bầy heo.
Bạo gặp Bình trong một căn hầm bí mật ở đầu dốc Hà Thanh, ngã ba đường rẽ xuống Chợ Cầu, đằng sau cứ điểm Cồn Tiên-Dốc Miếu không xa. Bình là bộ đội đặc công, bám sát địa bàn Gio Hà. Cả hai anh em vừa nhìn thấy nhau đã ôm chầm lấy nhau mừng mừng tủi tủi. Bình dong dỏng cao, da ngăm đen rám nắng, mắt sáng, thượng đình cao, mũi thẳng, khuôn mặt hiền từ, dễ mến. Lời nói nhẹ nhàng, chứa sức truyền cảm và rất có duyên. Bình là con trai chú Đồng, người làng của Bạo, cũng là ân nhân của gia đình. Chú Đồng làm nghề đi trộm xác. Đó là công việc thầm lặng, thiêng liêng. Sự hi sinh thầm lặng của từng bàn chân lặng lẽ trong đêm chính là sức mạnh mà giặc xâm lược không thể nào địch nổi. Không có vũ khí tối tân nào chiến thắng được mặt trận lòng dân. Chú Đồng có tật thọt chân, năm lần viết đơn bằng máu xin ra chiến trường nhưng gia đình chú cả năm người đều là liệt sỹ hi sinh nên chú phải ở lại trực tiếp làm dân quân du kích trên mảnh đất quê hương. Chú có hai người con lớn đã ra chiến trường là Hòa và Bình, còn có hai người con còn nhỏ út ít sau cùng là Thắng và Lợi. Hôm cha và anh của Bạo hi sinh, giặc không cho nhận xác. Đêm đó chú Đồng nhận nhiệm vụ đi trộm xác. Thông thường bọn giặc sẽ đặt dưới thi thể vài quả mìn, nếu cộng sản tới trộm xác thì cũng sẽ phải chết tan tành. Làm cái nghề kề cận với thần chết, ban đầu cũng sợ nhưng sau này không sợ nữa. Đêm hôm đó, hai thằng cu nhỏ sốt vật vờ, nóng hầm hập. Chú để con cho thím chăm sóc, rồi lặn lội đi trộm xác cha và anh của Bạo. Bằng một vài thủ thuật, chú đã thành công ăn trộm được xác, đem về làng chôn cất. Trong đêm đầy sương, gió nồm thổi lên tanh tanh mùi máu, mùi hôi nồng của xác, gia đình Bạo, đồng chí bí thư chi bộ, các đồng chí đại diện chính quyền lặng lẽ làm lễ truy điệu. Về tới nhà, con sốt cao ngặt nghoẹo, vì vội vã bồng con, mà chưa kịp tắm rửa thay áo quần. Bộ quần áo còn vương mùi thối của tử thi, mùi bùn đất đỏ của mộ mã vừa đào, mùi mồ hôi nước bùn của đồng ruộng, thằng Lợi bị nhiễm trùng mắt rồi mù hẳn, thằng Thắng thì chỉ húp được miếng nước cơm loãng rồi co giật và ra đi. Hai giọt máu co giật tím tái trong vòng tay mình. Chú Đồng cắn chặt môi cho máu túa ra chứ không rơi một giọt nước mắt. Bên ngoài tiếng chó sủa và bọn săn lùng kẻ ăn trộm xác rầm rập đến gần. Chú nghẹn ứ cục căm hờn mắc trong cổ họng, lại quyết tâm phải sống để tiếp tục chiến đấu chống kẻ thù. Chú vội vàng thay đồ rồi bồng đứa con đã chết trên tay, miệng khàn đặc cất tiếng ru hời trong đêm tối.
Bình ôm lấy Bạo, Bạo ôm lấy Bình, kể lại câu chuyện. Bình hiểu và nói với Bạo rằng: “đó là nỗi đau chung, nỗi đau chung của cả dân tộc, hãy biến đau thương thành ngọn lửa căm hờn, quyết chí đánh đuổi kẻ thù ra khỏi quê hương”. Bình đi bên Bạo, tiếp tục hỗ trợ cho đoàn quân vượt đường vào Cổ Thành. Địa bàn Gio Linh là vành đai chiến lược vô cùng lợi thế cho kẻ thù về mặt quân sự. Quân đội ta muốn vào Nam thì vượt sông Bến Hải, đi trước mũi đạn họng súng cùa kẻ thù. Ngoài biển chúng phong tỏa, trên trời máy bay gầm rú, dưới đất đồn bốt dày đặc với nhiều vũ khí hiện đại tối tân, đó là chưa kể đến thủy lôi, ngư lôi, người nhái và hàng rào điện tử Mác-na-ma-ra. Tiêu biểu có căn cứ Cồn Tiên - Dốc Miếu rào dày 23 lớp. Bên dưới lớp rào là bãi mìn dày đặc với các loại mìn claymore, mìn con cóc, mìn râu, mìn lá,...với nhiều tầm sát thương. Người lính phải biết vận dụng cả năm giác quan, từ xúc giác của tay để sờ, khứu giác để ngửi, thính giác, thị giác để quan sát, nghe ngóng, phán đoán, và cả giác quan thứ sáu để thoát hiểm. Đó là phương châm thuộc nằm lòng : “tai nghe, mắt thấy, tai sờ, chân đến và đoán đúng”. Bộ đội ta bằng xương thịt nhưng lại khiến cho quân địch phải khiếp vía vỡ mật. Bình cười rất tươi. Bom đạn không vùi lấp được nụ cười ấy.
Dưới bóng những hàng dương mờ nhạt trong đêm. Tiếng nói của Bình như tiếng sóng, tiếng đất của tổ tiên sừng sững hiện về: “Bè lũ Mỹ Ngụy và bè lũ tay sai đã nồi da xáo thịt nhân dân ta. Sau những chiến dịch “tát nước bắt cá”, “li khai cộng sản” nhằm lấn chiếm vùng giải phóng, cô lập cách mạng, thành lập khu trù mật, ấp dân sinh Tiểu khu Quảng Trị mới ở Diên Sanh. Từ Cửa Việt đến Cửa Tùng và dọc bờ nam sông Bến Hải chúng sẽ mở trận càn lớn, tàn phá nhà cửa làng mạc và dồn dân vào tiểu khu Diên Sanh. Đó là trại giam lỏng, mỗi gia đình không kể nhiều hay ít đều được cấp một chiếc lều bạt, cao chưa đến 3m, rộng chưa tới 6m vuông, tất cả ăn uống sinh hoạt củi lửa bếp núc đều trong đó, mùa đông lạnh thấu xương, mùa hè trên nắng dưới nóng như ngồi trên chảo rang. Từng dãy lều nối nhau như bát úp, rùa nằm, bốn bề được khép kín bằng những lớp rào bùng nhùng đầy kèm gai, chông mìn, đồn bốt, lính canh”. Bạo và các đồng chí lắng nghe không sót một chữ. Bà con dân làng ngồi im như uống từng chữ, nuốt từng lời, rồi đồng loạt cùng vung cánh tay lên cao : “không vào ấp chiến lược, chống càn quét, không rời bỏ quê hương”. Tiếng hô râm ran lan về tận cửa từng nhà, ngõ xóm. Chìm trong đêm, vùi trong cát, như hàng trăm lớp sóng xôn xao từ ngoài khơi, xô nhau chạy vào bờ.
Đêm. Bạo và mười hai đồng chí ngồi trong chiếc hầm chữ A bàn kế hoạch lên đường. Bình đi từ dưới chốt lên, người đầy bụi đất đỏ, cởi chiếc áo treo ở cửa hầm. Bỗng mấy loạt đạn pháo từ biển bắn vào, tiếng nổ xé tan màn đêm, các cứ điểm Cồn Tiên, Dốc Miếu, đồng loạt bắn về hướng Cửa Tùng. Trên trời mấy chiếc máy bay trinh sát Ovio sà thấp, cứ rè rè nghe đến nặng nề, nhức nhối khó chịu. Máy bay F4H, F105, cánh én, không người lái thi nhau gầm rú. Bầu trời như bị xé ra thành từng mảnh. Ở độ cao ngất trời xuất hiện những đường khói trắng của pháo đài B52 đầy man rợ chết chóc. Đột ngột loạt bom pháo tọa đội ào xuống nổ cùng một lúc, và một quả rokket trúng ngay giữa hầm lộ thiên, toàn bộ anh em lăn trong vũng máu không kịp kêu nhau một tiếng, nói với nhau một lời. Cơm rau chén đũa tung tóe, trộn lẫn máu thịt xương ốc ruột rà của mười hai anh em. Căn hầm ngập trong máu và mùi tanh đến ghê rợn. Sức công phá của một quả bom rokket với hàng vạn mảnh sát thương găm khắp cơ thể anh em chiến sĩ. Hai ba đồng chí lòi ruột hẳn ra ngoài, có anh nát hết mặt, óc cứ chảy ra từ hàng chục mảnh sát thương, thịt, tóc, bàn tay bay lên hàng chục mét trên mặt đất. Bạo nằm cùng máu thịt của đồng đội, một bàn tay của đồng chí nào đó nằm vắt lên ngực Bạo. Bạo không nhúc nhích được, đoán chừng cột sống đã gãy, cánh tay bị tê liệt hoàn toàn. Một sức mạnh vô hình thổi tung chiếc áo nằm vắt vào tay Bạo. Bạo lịm đi, bàn tay nắm chặt chiếc áo không buông. Chiếc áo vải như tấm khiên che chở cho Bạo. Chiếc áo có 16 vết thủng do đạn bắn và chỉ còn lại một chiếc quân hàm màu đỏ.
Bạo còn sống. Trên chiếc xe chở thương bệnh binh về trạm xá quân y dã chiến ở quận Đông Hà, Bạo tỉnh lại do những vết đau từ thân thể va chạm với thùng xe. Chuyến xe chạy trong đêm. Bạo nghe rõ tiếng máy bay địch gầm rú trên đầu, bóng đêm nặng nề trùm xuống. Những chùm pháo sáng toạc không gian ra từng mảnh. Đường bị đánh lở loét, nhiều hầm hố, dốc sâu, vực thẳm, bom nổ trước, đạn chặn sau, không khí nóng nực, oi bức, vô cùng căng thẳng. Đồng chí lái xe gồng tay lái, thỉnh thoảng lại cáu kỉnh bởi sập hố. Kéo đèn pha lên thì làm mục tiêu cho giặc oanh tạc. Chạy đèn gầm thì tranh tối tranh sáng mò mẫm như người mù. Tránh được hố này thì sa vào hố khác, xe cũng muốn lật nói chi xốc dằn. Xe lắc lư chao đảo, có những cú va đập như muốn hất thương binh ra khỏi thùng xe. Đến điểm dừng, nữ chiến sỹ quân y xếp lại chiếc áo bỏ vào hành trang cho Bạo, đồng thời bảo lãnh Bạo nhập viện và về khoa điều trị. Nữ chiến sỹ quân y ấy tên Mai. Mai quê ở một làng nhỏ ven sông Thạch Hãn. Nơi đó là điểm lửa, là nơi đến của Bạo và đoàn quân. Bạo mong khỏe lại thật nhanh để vào chiến trường, vào Cổ Thành. Đồng chí tiểu đoàn trưởng đã từng thông báo tình hình cho đoàn quân về trận quyết tử này. Từ khu nhà thờ Tri Bưu cũng rất lợi hại, đường rút và tiếp viện của địch theo hướng Hội Yên và Quy Thiện từ cảng Mỹ Thủy lên và dọc sông Vĩnh Định, kẻ thù tập trung hỏa lực, không quân và mọi thủ đoạn chiến tranh sẵn có để quyết chiến quyết tử. Cổ thành Quảng Trị sẽ trở thành biển lửa. Mai nhìn Bạo rất lâu, rất lâu. Cô gái nhỏ thắt bím tóc hai bên, đôi mắt đen như khung cửa sổ lộng gió đầy ánh sao đêm.
Ánh nhìn như đêm nay Bạo nhìn con trai mình.
- Con biết vì sao con có tên là Phong không?
- Dạ - Phong ngập ngừng
- Cha là Bạo, theo tiếng nói của miền quê Vĩnh Linh thì Bạo có nghĩa là Bão. Cha đặt tên con là Gió, khi cần sẽ mạnh lên thành Bão, khi hiền hòa thì sẽ là ngọn gió mát lành. Chiếc quân hàm nền đỏ, viền đỏ, có một vạch thẳng và hai ngôi sao vàng, là bằng chứng thép cho sức sống bất tử của những người lính đã trộn da thịt máu huyết của mình vào đất cát của tổ quốc. Giờ con đang mang trên vai mình chiếc quân hàm màu đỏ, màu máu, màu cờ, màu của tổ quốc. Lẽ nào, con lại dám đơn sai hai lòng?
Phong bước tới ôm lấy bộ quân phục của mình, mặc vào người. Chiếc quân hàm đỏ sáng bừng dưới ánh trăng. Trong không khí trang trọng và thiêng liêng ấy, Phong đứng nghiêm, đưa tay lên thái dương, nghiêm chỉnh chào người lính già đang đứng trước mặt:
- Báo cáo Đồng chí Cha, Đồng chí con xin thề : hy sinh tất cả vì Tổ Quốc, tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên, trung với Đảng hiếu với dân. Xin thề!
Người cha già, người lính già ôm lấy người lính trẻ. Ánh trăng hồn hậu và nguyên thủy soi chiếu từng góc nhỏ của lòng. Cha giữ nước, con dựng nước. Chiếc quân hàm đỏ dẫn đường chỉ lối cho người lính sáng mắt, sáng lòng. Ông Bạo dõng dạc:
- “Đồng chí đã ăn cơm dân, mặc áo đảng, là quân nhân cách mạng, đồng chí phải tuyệt đối phục từng mệnh lệnh, trung với nước, hiếu với dân”.
***
Phương rời khỏi Sa Trầm về trung tâm xã Ba Nang. Chú Bình đang đợi Phương dưới ấy. Nghĩ đến chú Bình, trong lòng Phương luôn dấy lên một cảm giác thân quen kỳ lạ, giống như là cha con, mà không phải. Chú Bình là nhà văn tiền bối của Phương, là hội viên trong Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh. Phương đi bộ, núi rừng mùa mưa không đi xe được, đường trơn trượt như một tô cháo lòng khổng lồ. Sa Trầm vào mùa mưa, mây xám quàng đỉnh núi sà xuống thật thấp, tiếng gió u u không nghỉ. Đường lên Sa Trầm đất đỏ đặc quánh, trơn trượt. Lòng đường nhầy nhụa đỏ ửng lên, đi cách nào cũng trượt. Hai ven đường cỏ mềm đã bết dính bùn đất. Cây cối lặng im. Ban đêm, nếu đi lạc trong đó chắc cũng giật mình vì tiếng rừng hun hút, thâm u. Phương ngồi cùng chú Bình trong một quán cà phê nhỏ bên triền dốc ở xã Ba Nang, trên bàn là tập bản thảo của Phương vừa kết. Cô gái nhỏ có ánh mắt lúc nào cũng xa xăm, dáng người mảnh khảnh, tóc dài ngang vai, thường được cột thành một lọn gọn gàng sau vai sau cổ.
-Cháu vừa từ Sa Trầm về chú ạ - Phương nói – cháu viết về những bước chân lặng lẽ đi tìm mộ đồng đội ở vùng đất này. Đất mùa mưa đỏ như máu, bùn chảy xô lại từng đụn, mềm đặc. Cây rừng thâm u, rờn rợn, cứ hễ mưa to là lại nghe như trong đó có tiếng xì xào, tiếng nói, tiếng cười, tiếng nỉ non, tiếng ca hát, tiếng bom gầm rú. Có lúc tiếng mưa róc rách như tiếng cười của suối, của cây đàn ghi ta, có lúc như là tiếng kêu tiếng hú. Người dân ở đây nói với cháu đó là tiếng rừng. Cháu đã viết hết vào đây, những ngổn ngang của cảm giác, từng người, từng chuyện, từng tên đất tên làng. Cháu viết hết rồi mà sao vẫn thấy thiêu thiếu một điều gì, một khoảng trống chẳng thể lấp đầy.
Giọng nói của Phương mảnh dẻ, dịu dàng, như hòa cùng tiếng gió, tiếng mưa phùn rả rích. Chú Bình âm trầm, đôi mắt sâu yên lặng. Đôi mắt ẩn chứa tất cả sự ôn nhu của cuộc đời dằng dặc sương gió. Chú Bình là người lính đi ra từ cuộc chiến chống Mỹ, chú đánh giặc trên chiến trường Quảng Trị. Ngày hòa bình, chú chọn ở lại đây và lăn mình vào công cuộc tái thiết. Chú làm tổng biên tập của một tờ báo lớn của tỉnh và đã nghỉ hưu, nhưng những bước chân của chú vẫn đi hoài không nghỉ. Bờ vai gầy với bộ quân phục xanh lá bạc màu mải miết đi tìm tiếng vọng đồng đội. Chú Bình thường nói với Phương: “Cuộc đời có quá khứ, hiện tại, tương lai. Người viết văn là phải làm cho quá khứ đồng hiện rõ lên mồn một, chạm đến tỉnh thức hiện tại cho người đọc, hiện lên ảo vọng đầy đủ hơn về tương lai, có như thế người đọc mới chạm được hồn văn, hồn người, hồn đời, để yêu và sống cho thật hơn, hiền hơn”. Phương không hiểu lắm, nhưng Phương muốn viết. Phương muốn những trang văn của mình hiện lên ngồn ngộn chất liệu cuộc đời, Phương đi nhiều nơi, gặp gỡ nhiều người, viết rất nhiều bài. Những bài viết láu, viết vội, người đọc chỉ tán dương trong chốc lát rồi quên ngay sau khi đọc. Điều ấy làm Phương trăn trở hoài, day dứt mãi.
Chú Bình nhìn Phương hồi lâu rồi nói:
- Chú có một người bạn, một người đồng hương, đồng đội cũ. Chú ấy thường hay nói: “Đồng chí đã ăn cơm dân, mặc áo đảng, là quân nhân cách mạng, đồng chí phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh”. Nhà văn cũng giống như chiến sỹ, nếu chiến sỹ phục tùng mệnh lệnh tuyệt đối, thì nhà văn phải phụng sự sự thật của thời đại một cách tuyệt đối. Cháu viết về quê lúa thì trong văn phải có đất, có cát, có sắn có khoai. Cháu viết về Quảng Trị mà không hiển hiện cái hồn của Quảng Trị, không phải cứ đưa từ ngữ địa phương răng mô tê nớ vào văn thì đó là chất Quảng Trị. Phải làm sao cho người đọc khi đọc tác phẩm của cháu, cả người phải nổi gai ốc lên, nổi cả da gà lên, thấy Gio Linh, Triệu Phong, Đông Hà,... cứ hiện lên rõ mồn một trong từng câu chữ. Đi nhiều nơi, nhưng đối với mỗi nơi ta đến, phải ngồi bệt xuống để đi vào từng tận cùng ngõ ngách cháu ạ.
Phương nhắc lại lời chú Bình:
- “Ăn cơm dân, mặc áo đảng, là quân nhân cách mạng, đồng chí phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh”. Hay quá, đúng quá, chú kể cho cháu nghe về chú ấy đi ạ!
Chú Bình nhìn về phía chân mây, hướng mắt về phía đồng bằng, nơi đó có Cồn Tiên, Dốc Miếu, Gio Linh, Đông Hà, Ái Tử, Thạch Hãn... nơi đó có dấu chân của hàng vạn hàng nghìn chiến sỹ đã bước tới, dấn thân và hi sinh. Chú Bình kể lại:
- Chú ấy tên là Bạo. Là cơn bão luôn sục sôi ngọn lửa căm hờn. Chú ấy đã hi sinh trong một trận bom vùi. Hôm đó, đồng đội đã hi sinh mười ba người, chú cởi áo đi ngoài nên bị bom vùi và được cứu ngay sau đó. Nhìn lại máu thịt trộn với bùn lầy đất đỏ, không biết bàn tay ngón tay này, bộ lòng kia là của đồng chí nào. Cảnh tượng đó cứ sống mãi trong ký ức của chú. Hôm đó, chú bất tỉnh, hôm sau chính quyền địa phương đã chôn cất nơi đó là mồ chôn tập thể. Ở Gio Linh, cát gió thường bị xáo tung lật đi lật lại, thân xác của đồng đội cũng theo gió mà đi xa.
Chú Bình lấy ra trong túi mình một chiếc ve áo màu đỏ, có một vạch thẳng và hai ngôi sao vàng. Chiếc ve áo lỗ chổ những vết rạn của thời gian. Chú nói:
- Hôm đó, chú vừa được phong hàm trung úy, chiếc áo quân phục và quân hàm còn mới. Nên chú cởi ra treo ở hang. Không ngờ, bom đánh trúng cửa hầm. Hôm sau, khi tìm kiếm và quy tập để làm lễ truy điệu, các đồng chí tìm được nó và đưa cho chú.
Phương cầm lấy chiếc ve áo màu đỏ. Trong lòng hiện lên một cảm giác vui sướng xen lẫn tự hào:
- Chú ơi, người yêu cháu cũng mang quân hàm đỏ. Là lính bộ đóng quân dưới Đông Hà.
Chú Bình hiền từ nói:
- Hèn chi nhà văn thích viết về người lính như vậy.
Tiếng chuông cuộc gọi zalo video đã cắt ngang cuộc nói chuyện của hai chú cháu. Trên màn hình điện thoại hiện lên dòng tên gọi : Ba chồng tương lai. Hai má Phương ửng hồng nhìn chú Bình và xin phép nhận điện thoại. Chú Bình gật đầu. Cả hai chú cháu đều cảm thấy bầu trời xám xịt lúc này như có những tia nắng hồng rải xuống, bình yên và dịu vợi. Phương nhận máy, gương mặt ông Bạo hiện ta trên điện thoại. Tách cà phê của chú Bình đang cầm trên tay bỗng run run nghiêng đổ. Chú Bình vội vã cầm lấy chiếc điện thoại từ tay Phương trong ngỡ ngàng của cô gái. Phía bên kia màn hình, bỗng vang lên một tiếng khóc vang, rồi nghẹn lại, vỡ tung ra.
Hơn năm mươi năm đã trôi qua. Dường như vẫn chưa hề trôi qua. Chiếc ve áo màu đỏ vẫn óng lên ánh sáng rực rỡ giữa ánh bình minh sau đêm dài bất tận…
Ngôi sao vàng sáng mãi trong cát bỏng. Ngày trở về rọi sáng đường đi.