TRAI LÀNG RA LÍNH

2025-09-03 07:11:32

News & Event

Từ người nông dân áo nâu thành người lính kiên trung – câu chuyện bác Đào Thiên Trực khắc họa tinh thần yêu nước bất diệt.
Tinh thần yêu nước của người Việt được giáo sư Nguyễn Văn Giàu phát biểu: “ Trông vào lịch sử cũng nhiều nghìn năm của dân tộc Việt Nam, từ Văn Lang, Âu Lạc cho đến nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì người quan sát có thể thấy ngay rằng tư tưởng chủ đạo, cái “lý thường hằng” nhất, quán triệt cổ kim là chủ nghĩa yêu nước, chống xâm lăng, bảo vệ sự tồn tại của dân tộc, là tư tưởng “ không có gì quý hơn độc lập tự do”. Tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ thời cổ đại đến hiện đại, ở đây bản chất Việt Nam biểu lộ rõ ràng, đầy đủ, tập trung nhất hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước thành một triết lí xã hội và nhân sinh của người Việt Nam. lớn nhất của nhân dân, dân tộc Việt Nam”. Lời của giáo sư đã khẳng định một cách sâu sắc rằng: đạo đức, phẩm chất mà người Việt xem là quý giá, thiêng liêng nhất là lòng yêu nước.
 
Tôi, một công dân Việt thế hệ 8X, được sinh ra và lớn lên trong thời bình nhưng tôi hiểu rõ lòng yêu nước của dân tộc khi đất nước có chiến tranh. Những trang sử vàng, những thước phim tư liệu quý giá, những anh hùng lặng lẽ tôi gặp đã giúp tôi thấm thía tình yêu nước lớn lao thế nào khi khắp nơi vang tiếng bom rơi đạn nổ. Tôi xin viết ra đây cuộc gặp gỡ giữa tôi và một người tù cách mạng kiên trung.
 
Người nông dân mặc áo lính
 
Người cách mạng kiên trung mà tôi đang kể là bác Đào Thiên Trực, quê thôn Cảnh Phước, xã Hòa Tân Đông, thị xã Đông Hòa, Phú Yên ( cũ), nay là thôn Cảnh Phước, phường Đông Hòa, tỉnh Đắk Lắk. 
 
Bác Trực sinh năm 1931 ở thôn Cảnh Phước, là một xóm nhỏ nghèo, nằm kề sông Bàn Thạch. Xóm nghèo nhưng ấm áp nghĩa tình. Tôi là thế hệ hậu bối ở cùng xóm với bác, lớn lên bằng kí ức hễ trong xóm có đám giỗ thì lũ con nít được kêu lại cho cái bánh ít lá gai, bánh nậm, trái chuối. Bây giờ nhiều nhà vẫn còn lệ đó. Kể chuyện này, bạn bè tôi công kích, bảo thời nào rồi mà đám giỗ còn tự nấu nướng và cho bánh nọ kia. Tôi chẳng lấy làm xấu hổ vì bị xem lạc hậu mà còn tự hào lộ liễu rằng đó biểu hiện đậm đà của tình làng nghĩa xóm. Đó là điều tốt đẹp xứng đáng giữ gìn phải không ? Xóm tôi vậy đó, nghèo một chút nhưng hiền lành, thơm thảo. Tuy chưa được bốn lăm tuổi nhưng tôi có cơ hội ở nhiều nơi, đến nhiều cái chợ để rồi lại khẳng định chẳng nơi nào ấm áp dễ thương như cái chợ Xổm của thôn Cảnh Phước. Đồ ăn nhà làm, rau trái vườn trồng, ngay cả đồ mua đi bán lại vẫn được bán với giá rất rẻ - như thể vừa bán vừa cho. Chợ khô ráo, sạch sẽ. Siêu thởi lởi. Nói sao bán vậy, không cần kì kèo, người bán tự thấy như thế hãy còn ít và sẽ tự thêm.
 
Còn nữa niềm tự hào vẫn chưa kể hết, xóm tôi đã gần con sông quê trĩu nặng phù sa lại gần núi Chai (nơi có chóp Hòn Vung, từng diễn ra nhiều trận đánh vệ quốc). Xóm nghèo, làm ruộng nuôi bò nhưng khi Tổ Quốc gọi tên, người nông dân sẵn sàng bỏ bộ áo nâu mặc áo lính; nên cái xóm nhỏ nhưng phía trước nhà có nội Tám là mẹ Việt Nam anh hùng, phía ngoài con mương lớn có chú Trí, chú Nam là thương binh, tuổi trẻ dành tâm sức cho chiến trường, ra lính về làm kinh tế, giúp đỡ người khó khăn; riêng gi đình tôi có ông ngoại tôi vừa dạy học vừa bí mật tham gia cách mạng, có bà ngoại từng đào hầm che giấu cán bộ….. Nhưng những người tôi vừa kể đã mãn tuổi trời, thế hệ đã góp xương máu cho hòa bình để hậu bối tự hào, cố gắng xứng đáng với những đóng góp cao cả đó chỉ còn lại chú Đào Thiên Trực, một người chiến sĩ cách mạng kiên trung trong câu chuyện tôi đang
kể.
 
Con nhà nông, chàng trai Đào Thiên Trực học xong mấy lớp đầu cấp thì cũng “nối nghiệp” ba mẹ, lội bùn mấy năm thì lấy vợ, sinh con. Mười sáu tuổi lấy vợ, hai hai tuổi ra lính. Tôi thấy hơi khó tin chuyện anh nông dân đã có vợ con lại dám bỏ nhà cửa ruộng vườn thay chiếc áo nâu mặc đồ lính. Bèn hỏi:
- Một người nông dân mà bỏ hết ruộng vườn, vợ con để đi lính thì lỏng lẻo quá!? Có điều lớn lao nào đã thôi thúc bác??
Bác Trực cười to, cười ha hả sảng khoái như anh hùng Kiều Phong trong tiểu thuyết “ Thiên Long Bát Bộ” của Kim Dung.
- Ý muốn hỏi về sự dũng cảm, lòng yêu hả bé con ?
Tôi xác nhận bằng sự lặng im và gật đầu lia lịa, bác nói:
- Hồi đó không biết khái niệm dũng cảm, yêu nước gì đâu. Chỉ biết ở nhà làm ruộng nuôi con mà không yên, xóm làng nằm co ro dưới bom đạn, người dânlo sợ và khao khát được yên ổn, vậy là đi lính! Chỉ có chiến đấu mới mong bình yên.
Vì ý nghĩ đó mà một bước ngoặt đã xảy ra, chàng trai nông dân đã vào chiến trường vì khao khát muốn gia đình, thôn xóm yên ổn.
 
Bác Trực kể, thời gian đầu bác ở căn cứ của huyện Tây Hòa, Phú Yên ( cũ) nhưng đến năm 1960 thì công tác ở phân đội trinh sát của tỉnh đội Đăk Lăk (cũ). Hai năm sau, đó là năm 1962, sau trận chiến đấu ở Dinh Điền, Chí Thiện, thuộc buôn Hồ, Đăk Lăk thì bác bị thương nặng ở tay. Bác nói rồi xoăn tay áo lên, tôi nhìn thấy một với sẹo to, chỗ “con chuột” không vồng lên cuồn cuộn mà trõm sâu, y như “ con chuột” ở đó đã bị móc đi vậy. Thấy tôi nhăn mặt, bác cười ha ha, chỉ là vết thương xoàng, có gì đâu mà sợ! Mình may mắn chỉ bị thương còn đồng đội… Trận đánh đó, bác Trực, chàng trai nông dân của thôn Cảnh Phước đã trực tiếp ra trận. Bác nhìn xa xăm, nheo nheo mắt y như khóc rồi bảo, trận đó đánh ác liệt lắm, khi chiến trường không còn tiếng súng, nhìn thấy quanh mình tới chín đồng đội đã hy sinh, nước mắt chảy ròng… Tôi hỏi lúc ra trận có sợ chết không thì bác cười to:
- Hỏi hay mà thừa rồi. Chết thì ai chả sợ? Nhưng người lính, đã ra trận rồi thì không biết sợ nữa. Chỉ nghĩ đến hòa bình nên đã quên đi cái chết.
 
Sau thời gian điều trị vết thương trúng đạn ở cánh tay và tiếp tục công tác ở phân đội trinh sát của tỉnh đội Đăk Lăk thì đến năm cuối năm 1964, bác Đào Thiên Trực được đơn vị cử đi học Quân y. Năm 1965 về làm ở tiểu đội điều trị của bệnh xá tỉnh đội Đăk Lăk. Sau đó một thời gian thì được điều về phục vụ ở đơn vị chủ công của tỉnh, đại đội 875.
 
Đầu năm 1966, trên đường đi công tác ở đường 21 Đăk Lăk thì người lính cách mạng Đào Thiên Trực bị bắt cầm tù, thời gian 7 năm 4 tháng. 
 
Bị bắt, bác được giam giữ bác ở Nha thẩm vấn cao nguyên trung phòng Buôn Mê Thuộc. Trong tù, bác kiên gan không tiết lộ những bí mật của cách mạng. Phía bên kia dùng lời ngon ngọt mua chuộc, dùng đòn roi lấy cung vẫn không được, đến tháng 7 năm đó thì họ đưa bác ra giam giữ ở Quân đoàn 2, Pleiku.
 
Đến năm 1968, quân ta tấn công vào nhà tù Pleiku ( nơi bác Trực đang bị giam giữ) cuộc tấn công ấy đã gây chấn động, tổn hao sinh lực địch, sau trận đánh đó, địch liền chuyển bác ra nhà tù Phú Quốc.
 
Bác Đào Thiên Trực nói “ Trong hai nhà tù, cả đất liền lẫn Phú Quốc, bác đều giữ chức vụ cấp ủy”.
 
Những hoạt động sau hiệp định Giơ – ne – vơ.
 
Ngày 21/3/1973 theo thỏa thuận của hiệp định Giơ -ne -vơ, hai bên thực hiện trao trả tù binh ở Thạch Hãn, Quảng Trị. Ra tù, bác Đào Thiên Trực được về học tập, an dưỡng ở quân đoàn 72 Tuyên Quang (cũ). 
 
Đến ngày 17/4/1974 được lệnh điều động về Nam, cụ thể là về lại quê nhà, tỉnh đội Phú Yên (cũ), làm quản giáo trại tù binh của tỉnh đội.
 
Thời gian sau đó , bác được điều động đi làm công tác chuẩn bị cho tổng tuyển cử bầu quốc hội chung cả nước ở khu vực thành phố Nha Trang. Đến đầu năm 1976, được điều ra làm bảo vệ tiểu đoàn 2 trung đoàn 861 Tuy Hòa, Phú Yên ( cũ).
 
Từ cuối năm 1976 – 1978 bác Trực được điều ra Quy Nhơn, Bình Định (cũ) công tác, làm chính trị viên tiểu đội 35 tiểu đoàn 9 thuộc đoàn 860 quân khu V, rồi sau được điều về sư đoàn 860, làm giáo viên chính trị của sư đoàn, lo huấn huyện tân binh chuẩn bị đưa quân cho chiến trường Campuchia.
 
Đến năm 1983 thì bác Đào Thiên Trực nghỉ hưu.
 
Trận đánh Dinh Điền – Chí Thiện ( buôn Hồ, Đăk Lăk (cũ)
 
Đó là xuân năm 1962, đơn vị đại đội chủ công của tỉnh đội Đăk Lăk đưa quân về Dinh Điền để bảo vệ đồng bào ăn Tết. Chiều 30 Tết, địch điều ba tiểu đoàn, chia làm ba cánh bao vây. Lực lượng của ta tuy mỏng hơn nhưng đã chiến đấu quyết liệt. Chưa lúc nào bác và đồng đội thấy mình phi thường như lúc đó. Không nghĩ gì ngoài việc phải bảo vệ để xóm làng ăn Tết. Tới lúc đó tự dưng thấy cái chết nhẹ tựa lông hồng. Với tinh thần quyết đấu dù thế cân bằng bên ta yếu hơn, cuối cùng hai cánh quân của đối phương cũng không chiếm được Dinh Điền. Dù không chiến thắng giòn giã nhưng những người lính vẫn giữ được xóm làng, bảo vệ cho đồng bào Dinh Điền ăn Tết.
 
Bác kể, địch bắn pháo tấp nập, anh em không nấp dưới hầm phòng thủ nữa mà xông lên bắn trả, địch từ từ rút. Ở trận đấu đó, bác bị thương nặng ở cánh tay.
 
Giây phút lắng đọng, nhiều cảm xúc nhất là khi chiến trường tiếng súng tạm ngưng. Bình yên trong khoảnh khắc nhưng ngay lúc đó, nỗi đớn đau đã kéo dài đằng đẵng – giọng bác lạc đi, nghẹt hẳn. Sau một trận mưa bom, cây bị đốn nghiêng ngã, nhựa cây ứ ra, như máu. Giữa núi rừng hoang vu. Nắng, khát, đói. Người chiến sĩ nhuộm bụi đất, gọi tên người đồng đội từng chia nhau tấm chăn mỏng nơi rừng khuya đầy sương muối đang đẫm máu trong tay mình – bác nói mà nước mắt từ từ rịn ra, làm tôi cũng xúc động rơm rớm. Rồi bác khóc…
( Bác Đào Thiên Trực – một người tù Côn Đảo)
 
Chuyện kể ở nhà tù
 
Khi hỏi về mốc thời gian khó khăn, đáng nhớ nhất, bác Trực bỗng trầmngâm, đôi mắt tối sầm khi tôi vừa dứt lời:
 
“Cả hai, nhà tù Côn Đảo hay Phú Quốc đều là NỖI ÁM ẢNH KINH HOÀNG. Không chỉ dùng cây, gậy đánh vào người mà họ còn dùng đinh mười đóng xuyên gối để đe dọa, thị uy, tra gạn. Không khai thì càng bị tra tấn nặng nề hơn. Người ta đánh đập tù binh rất dã man, dùng cây, gậy, điện đánh xả vào người tù. Thảm hơn, họ dùng đinh 10 đóng xuyên vào đầu gối, rạch bụng… ( rạch bụng thị uy nhưng vẫn không khai thì họ đem đến quân y may vá lại” – bác ngậm ngùi nói).
 
Trong nhà tù, bác may mắn hơn vì chỉ bị đánh gãy xương sườn số 6 nhưng nhiều đồng đội của bác thì bị đánh đến chết. Đặc biệt, người ta đánh đập, tra tấn nặng hơn với những người làm cấp ủy trong tù, đánh rát để cho anh em sợ hãi quay ra chiêu hàng, tiết lộ bí mật…
 
Bác từ tốn, hồi tưởng lại kí ức kể: người ta đánh, bắt đầu từ khu A đến khu B khu C, ai chịu hổng nổi đầu hàng thì giặc thả, ai không chịu hàng thì cứ giữ đó, đánh đập thường xuyên tới chừng có lệnh trao trả tù binh mới thôi. Ở trong tù, người tù đấu tranh bằng cách tuyệt thực, có nhiều người liên lạc được với tổ chức cách mạng tìm cách vượt ngục.
 
Rồi đôi mắt xẫm tối, bác buồn buồn nói: chiến trang thật đáng sợ, ở trong tù, phải chứng kiến cảnh nhồi da xáo thịt, đau lòng khôn kể xiết…
 
Khi cuộc chiến đi qua, còn lại kỉ vật vô giá.
 
Trong căn nhà nhỏ bé, luộm thuộm, người cách mạng một thời ra tù vào khám Đào Thiên Trực lôi từ chiếc rương cũ kĩ. Bác từ từ, cẩn trọng lấy ra một quyển sổ. Giấy hẩm xì, mốc meo, vàng ố, nhiều tờ mục ruỗng, rớt vụn. Mở ra, chỉ còn dấu tích những bài thơ, những đoạn tạp văn mỏng được ghi chép ở rừng. Bằng ánh mắt lung linh, bác nói, cái này quý nhất nè rồi chỉ vào cây đàn gui - ta móc trên vách.
 
Đưa tay rải trên những dây đàn, giai điệu hùng tráng và lời kể lúc mạnh mẽ lúc yếu mềm, bác đưa tôi về những giây phút vui vẻ hiếm hoi của những người lính khi họ quây quần bên cây đàn. Những lúc đó, Tử thần không còn được ai nhớ nữa. Bác vừa kể vừa cười, đưa tay quẹt mắt như muốn khóc, mắt trũng ướt khi kể chuyện hồi bị thương ở vai và tay, lúc hành quân thằng bạn mang dùm cây đàn. Trèo đèo lội suối, băng qua lửa đạn cũng không lúc nào quên cây đàn.
 
Ngừng một quãng, bác vào nhà lấy tiếp một món đồ, nói: “ Cái này mới đích thực quý giá nè, đó là Kỉ niệm chương sau lần bác được Ban bí thư TW Đảng mời tham gia Hội nghị gặp mặt các đồng chỉ tham gia cấp ủy trong nhà tù và trại giam của địch thời kì chống Mỹ cứu nước ( 1954 – 1975). 
 
Hiện tại, bác Trực đang sống trong căn nhà nhỏ bé cùng người vợ thương binh đã nhiều lần bệnh nặng và nay thì nằm một chỗ. Nếu được trò chuyện với bác về chuyện trai làng đi lính, bác sẽ lại lần nữa khẳng định: thấy xóm làng “đầu rơi máu chảy” thì tiếc gì mà không đứng dậy…
 
Nguyễn Thị Bích Nhàn