Nhà tôi ở cách nhà ông bà ngoại một con đường liên thôn chừng hơn một cây số. Từ khi còn nhỏ, tôi đã luôn gần gũi với bà ngoại. Bà tôi hiền hậu lắm và tấm lòng thương yêu con cháu thì suốt đời chúng tôi không quên. Tôi cứ nhớ mãi những năm đi học xa, thỉnh thoảng về chơi, bà tôi khi ấy đã gần bảy mươi tuổi vẫn chẳng ngại ngần đi bộ xuống nhà tôi, mang cho cô cháu gái chục trứng gà, ít quà bánh để bồi dưỡng. Tôi cứ nhớ mãi bà với chiếc áo bà ba giản dị, chiếc khăn vuông trùm đầu, dáng người nhanh nhẹn và nụ cười tươi tắn hiền hòa để lộ hàm răng đen nhay nháy.
Ông ngoại tôi là một chiến sĩ giải phóng quân, đã anh dũng hi sinh trong chiến trường miền Nam năm 1968. Tôi chỉ biết về ông qua những câu chuyện kể của bà và mẹ. Tôi chỉ hình dung ra ông qua bức vẽ chân dung để trên ban thờ. Trong hình, ông còn rất trẻ, trắng trẻo và đẹp trai, khoác trên mình bộ quân phục màu xanh của người lính với ánh nhìn cương nghị. Năm 1958, lúc hai mươi mốt tuổi, ông tôi lên đường nhập ngũ theo tiếng gọi của Tổ quốc. Bốn năm sau, ông trở về quê hương và tiếp tục năng nổ với các công tác của đoàn thanh niên. Ông tôi trong mắt của những người làng, là một người hào hiệp, nghĩa khí, luôn quan tâm và giúp đỡ mọi người. Ông cũng làm thơ rất hay, thậm chí ông đã sáng tác nguyên một tập thơ, nhưng không may tập thơ ấy đã bị thất lạc.
Ông bà tôi nên duyên với nhau và tổ ấm nhỏ thêm hạnh phúc khi mẹ tôi chào đời. Nhưng lòng ông thì vẫn luôn canh cánh nỗi đau đáu khôn nguôi khi đất nước chưa hòa bình, thống nhất. Bà tôi kể rằng, đêm đêm nghe tiếng đạn bom và tin tức gửi về từ chiến trường, ông trằn trọc đến mất ngủ. Sống đời vợ chồng vỏn vẹn hai năm, ông tôi xin tái ngũ, để mẹ già và con thơ cho người vợ trẻ. Trước ngày lên đường, ông đến gặp chú bác và anh em trong họ nhờ giúp đỡ gia đình, bởi ông đã có những dự cảm của một người mang tâm thế sẵn sàng chiến đấu và hi sinh cho Tổ quốc. Ông nói với bà: “Anh đi lần này chắc không trở về”.
Những tâm tư, tình cảm của một chiến sĩ giải phóng quân yêu nước, yêu Đảng, mang trong mình lý tưởng sống cao đẹp, một tinh thần hiên ngang, “thà chết không lui”(1) đã được ông tôi thể hiện trọn vẹn trong bài thơ tặng bà trước ngày lên đường:
Với tôi, ông ngoại vừa thân thuộc vừa xa xôi như những nhân vật trong các tiểu thuyết anh hùng. Phải đến khi tôi được đọc bức thư mà ông gửi cho bà trước khi hành quân vào chiến trường miền Nam, tôi mới thêm hiểu về người ông đáng kính của mình. Cô em họ của tôitrong lúc dọn dẹp nhà cửa phát hiện ra bức thư, chụp ảnh lại và gửi cho tôi. Đó là lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với một kỉ vật thuộc về ông ngoại.
Dấu vết của thời gian và hoàn cảnh ngặt nghèo của những năm tháng bom đạn giày xéo đã để lại trên các trang giấy ngà ngà vàng những mảng ố loang lổ, đôi chỗ bị thủng và nhoè chữ. Có lẽ, ông tôi đã tranh thủ giờ nghỉ giải lao giữa lúc luyện tập để biên thư về cho gia đình. Những dòng viết bằng mực xanh, nét chữ ông khoáng đạt và đều đặn, có những đoạn phải chèn ngang ở mép trang vì thiếu giấy.
Ông xưng hô với bà đầy trân trọng và yêu thương: “Tuyền thân mến. Tuyền ạ. Từ ngày Giám ra đi đến nay đã mười ngày rồi đấy nhỉ”. Mười ngày thôi mà với ông tưởng như đã lâu lắm rồi. Ông thông báo vì khẩn trương luyện tập nên giờ mới có thời gian biên thư về cho gia đình được. “Chắc mẹ và Tuyền ở nhà mong thư lắm đấy nhỉ?”. Ông bảo nhớ con đến không ngủ được, không biết con ở nhà có ngoan không, có gọi bố không. “Nếu con gọi bố, chắc Tuyền cũng thấy nhớ bố Tuyền lắm nhỉ. Đấy là lẽ tất nhiên, nhưng Tuyền đừng buồn nhé”. Ông động viên bà phải chăm chỉ sản xuất và nuôi con khỏe để cho ông yên tâm công tác. “Còn về phần Giám thì nay đang ngày đêm học tập, trên vai lúc nào cũng ba mươi đến ba lăm cân gạch, trèo đèo lội suối không rõ ngày đêm, từ lúc vào đơn vị đến nay”. Chắc chỉ khoảng nửa tháng nữa là ông sẽ vào Nam chiến đấu. Ông gửi lời hỏi thăm tới mọi người trong gia đình và các chú bác trong họ, đồng thời dặn bà hãy chụp một tấm hình con gái gửi cho ông để những ngày xa xôi đỡ nhớ. “Tuyền cố gắng nhé, gửi ngay nhé”. Hiện ông đang ở một nơi bí mật và chỉ biết địa chỉ như vậy. Ông mong chờ ngày giải phóng, gia đình sum họp. “Ví dụ có thế nào thì cũng đành chịu vậy. Đó là nghĩa vụ của người thanh niên với Tổ quốc. Đừng buồn nhé, vui lên vui lên, khóc là yếu ớt. Dù có phải chia sẻ tình yêu cũng không khóc. Và Tuyền phải tự hào vinh dự mình là vợ một người giải phóng quân, đã có một người chồng giải phóng Tổ quốc”.? Cuối thư ông không quên nhắc bà: “Chú ý chụp một ảnh hai mẹ con bế nhau nhé, một ảnh riêng của con, đừng sợ tốn tiền nhé”.
Không dưới đôi lần, tôi phải dừng lại giữa chừng đôi lần để lau những giọt nước mắt lăn dài trên má. Từng câu từng chữ ông tôi viết như một luồng điện chạy thẳng vào tim. Tôi mường tượng ra hình ảnh một người trai trẻ nơi non cao rừng thẳm, khắc khoải nhớ thương mẹ già, vợ trẻ, con thơ, nhưng vẫn nắm chặt cây súng, quyết tâm bảo vệ từng tấc đất quê hương.
Khi ông hi sinh, bà tôi đang ở lứa tuổi hai mươi đẹp nhất của đời người. Cậu tôi từ lúc chào đời chưa một lần được gặp mặt bố. Bà đã không cản bước chí nguyện của ông, mà thay ông làm tròn bổn phận, chăm sóc mẹ già, nuôi dạy con thơ, giữ trọn chữ thủy chung của đạo nghĩa vợ chồng, vừa hăng hái sản xuất, nuôi quân, làm giáo viên và thư ký đội chẳng quản ngại vất vả. Cuộc đời thầm lặng, tận tụy hi sinh mà vô cùng cao đẹp ấy đã là nguồn cảm hứng để cô em họ tôi viết riêng một bài thơ rất cảm động và chân thực về bà:
Tháng bảy. Một mùa Vu Lan lại về.
Mỗi dịp Vu Lan là cơ hội để tôi suy ngẫm sâu sắc hơn về những ân nghĩa mà mình đã thọ nhận trong đời. Ân Tam Bảo, ân cha nghĩa mẹ, ân Tổ quốc linh thiêng, ân chúng sinh vạn loại đã cho tôi một cuộc sống đủ đầy, trọn vẹn. Mùa Vu Lan năm nay với tôi càng thêm ý nghĩa khi diễn ra cùng thời điểm với những sự kiện trọng đại của đất nước. Hòa cùng người dân từ Bắc Trung Nam cùng hướng về lễ kỉ niệm 80 năm ngày Cách mạng tháng tám thành công và Quốc khánh 2/9, tôi lắng lòng tưởng nhớ đến công ơn của các bậc tiền nhân, từ thuở dựng nước và giữ nước, đã kiên cường, bất khuất đấu tranh để bảo vệ nền độc lập, hòa bình, tự do cho dân tộc. Tôi lắng lòng nhớ đến những người ông người bà, giờ đây đã về nơi miền mây trắng với tất cả tấm lòng tri ân thành kính.
Và khi tôi viết những dòng chữ này, ca khúc “Nỗi đau giữa hòa bình” do nhạc sĩ Nguyễn Văn Chung sáng tác và ca sĩ Hòa Minzy trình bày đã được ra mắt trước đó một ngày. Tôi đã lặng đi khi xem những thước phim minh họa cho bài hát, tựa như câu chuyện của ông bà ngoại tôi đang được tái hiện sống động và trọn vẹn ngay trước mặt. Nhưng câu chuyện đó nào phải của riêng một cá nhân hay một gia đình. Đó là câu chuyện đầy mất mát thương đau mà rất đỗi tự hào của cả một thế hệ với biết bao người mẹ, người vợ, người chồng, biết bao những chàng trai, cô gái đã dũng cảm gác lại những tình cảm, những hạnh phúc riêng tư để một lòng một dạ quyết tâm gánh vác trọng trách với non sông đất nước. Những người mẹ mái tóc đã phai sương, nghẹn ngào tiễn con lên đường ra trận mà không hẹn ngày trở về. Những người vợ khắc khoải ngóng trông chồng để rồi chết lặng khi người không trở về, thay vào đó là tấm giấy báo hi sinh. Những đứa trẻ đã ngằn ngặt khóc trong những đêm dài mà thiếu vắng hơi ấm và bàn tay của bố ôm ấp, vỗ về. Những người chiến sĩ giữa rừng bom rơi đạn lạc, luôn sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc…
Nước mắt tôi cứ lặng lẽ rơi xuống. Vì nỗi đau thương đến quặn lòng trào dâng trong tâm trí và trái tim. Vì xúc động. Vì tự hào. Đứa con gái sáu tuổi của tôi đang ngồi ở phía sau bỗng chạy đến ôm chầm lấy tôi. Bé sụt sùi nói với tôi với đôi mắt ầng ậc nước: “Mẹ ơi, xem bài hát này con thấy buồn quá”. Tôi ôm con vào lòng, hai mẹ con tôi chẳng ai bảo ai, nước mắt tuôn trào. Tôi nhắc lại cho con về những cụ ông cụ bà hai bên nội ngoại, nói cho con hiểu về những sự hi sinh cao cả của thế hệ cha ông, để ngày hôm nay con được bình yên trong những giấc nồng, được lớn lên và học tập với bao điều tốt đẹp đang đón chờ phía trước.
Tôi chợt nhớ đến lời của một vị thầy đã từng nói về cánh diều và liên tưởng ngay đến bản thân mình và những thế hệ mai sau. Chúng tôi như những cánh diều no gió, được bay cao, bay xa trên bầu trời tự do nhưng sẽ luôn cần một sợi dây kết nối và định hướng từ mặt đất để không lạc lối, vô phương. Sợi dây ấy, chính là mạch nguồn linh thiêng đã nuôi dưỡng tâm hồn bao người con Rồng cháu Tiên tự ngàn đời nay. Sợi dây ấy, chính là kết tinh từ tấm lòng nhân nghĩa, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái và ý chí kiên cường bất khuất, yêu chuộng hòa bình của dân tộc ta.
Xin hãy cùng nhau tiếp nối truyền thống cha ông, viết tiếp nên những câu chuyện đáng tự hào, để làm rạng danh con cháu Lạc Hồng, rạng danh đất mẹ Việt Nam anh hùng.
(1): Lấy ý từ bài hát “Đoàn vệ quốc quân” – ST: Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu.