Chiến công thầm lặng của chị - Liệt sĩ Nguyễn Thị Thủy

2025-08-28 08:23:42

News & Event

Tháng Bảy hàng năm ở Quảng Trị là thời điểm đông đảo người dân từ khắp mọi miền đất nước tụ hội về đây. Họ là thân nhân các gia đình liệt sĩ, thương bệnh binh, cựu chiến binh và những đoàn du khách chọn Quảng Trị - mảnh đất một thời bi tráng - làm điểm đến trong hành trình. Dịp này, từng dòng người lặng lẽ thăm Di tích quốc gia Thành cổ Quảng Trị, viếng Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Đường Chín, nơi yên nghỉ của gần 2 vạn liệt sĩ, để cùng non nước dâng hương tưởng nhớ, tri ân những người đã chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Cựu chiến binh Nguyễn Vân Hậu
Thắp nén hương lòng
 
Rất đông lữ khách đứng trên "Bến thả hoa" lặng nhìn đôi bờ Thạch Hãn trầm tư, soi bóng xuống dòng sông xanh, nơi đã đi vào lịch sử non song với bao chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những ngày tháng ấy, dưới pháo sáng và đạn bom, nhiều chiến sỹ của ta đã anh dũng hy sinh khi vượt sông sang chi viện cho trận chiến 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị mùa hè năm 1972. Cựu chiến binh Lê Bá Dương đã phải nghẹn ngào, thốt lên:
"Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ, mãi mãi ngàn năm...".
Thắp nén hương lòng để tưởng nhớ những người đã ngã xuống, tôi viết về chiến công thầm lặng của chị - Liệt sĩ Nguyễn Thị Thủy. 
 
Câu chuyện xảy ra khoảng giữa thập niên 60 của thế kỷ trước ngay tại nhà của gia đình tôi ở làng Như Lệ, xã Hải Lệ, thị xã Quảng Trị (nay là Phường Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị) - trong một lần chị mưu trí, dũng cảm giải cứu cán bộ cách mạng thoát khỏi tay giặc. Người cán bộ năm xưa đó sau này là Đại tá Đào Xuân Thống - nguyên Giám đốc Công an tỉnh Quảng Trị; nguyên Cục trưởng Cục Tham mưu an ninh, Bộ Công an (đã nghỉ hưu sống tại thành phố Hồ Chí Minh). Dù tuổi đã gần 80, anh vẫn ghi lòng tạc dạ những ngày tháng tuổi trẻ hoạt động cách mạng, vào sinh ra tử, được nhân dân chở che như thế nào.
 
Những ngày tháng đó, Quảng Trị là chiến trường rất khốc liệt, địch mở nhiều cuộc càn quét hòng tìm diệt cán bộ, du kích, bộ đội ta. Anh Đào Xuân Thống sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu nước, sớm thoát ly tham gia cách mạng, lúc ấy mới tuổi 18, thuộc lực lượng An ninh tỉnh Quảng Trị hoạt động ở địa bàn xã Hải Lệ. Sau này, tôi cũng có đọc nhiều bài viết về anh, biết anh từng vào sinh ra tử trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Chị Nguyễn Thị Thủy kém tuổi anh Thống. Họ cùng chung lý tưởng cách mạng và đã có một thời tuổi trẻ dấn thân.
 
Ảnh 1: Chị Nguyễn Thị Thủy
 
Sẵn sàng đánh đổi mạng sống
 
Làng Như Lệ quê tôi ở bờ Nam sông Thạch Hãn, nằm giữa 2 đồn địch là đồn Tân Lệ và đồn La Vang. Đây là vùng chiến sự giáp ranh đêm ta, ngày địch. Ban đêm du kích và chính quyền cách mạng hoạt động, ban ngày thì rút vào rừng hoặc xuống các hầm bí mật. Mặc dù thường bị địch đe dọa, kiểm soát gắt gao nhưng lòng dân vẫn kiên trung hướng về cách mạng.
 
Vào một hôm khoảng đầu giờ chiều, anh Thống tạt qua nhà tôi trong chuyến công tác. Những lần trước anh cùng du kích thường về làng vào buổi chiều chạng vạng, chập tối, lúc địch đã rút về đồn. Hôm đó, anh đến sớm hơn làm cả nhà lo lắng, vì đang trong khung giờ binh lính địch vẫn thường đi tuần tra, càn quét, nếu chúng phát hiện thì quá nguy hiểm.
 
Linh tính quả không sai, khi chị Thủy (là chị ruột của tôi) và anh ấy đang bàn công tác thì có tin báo khẩn cấp địch đi càn, tràn vào làng từ nhiều hướng. Tình huống quá bất ngờ, lúc đó, tiếng bọn lính quát tháo ở xóm dưới cách chừng vài trăm mét, nghe đã rất gần.
 
Cha mẹ tôi hốt hoảng. Chị tôi và anh Thống cũng bối rối thực sự, chưa biết xử trí ra sao. Rút chạy ra khu an toàn thì không kịp, hầm bí mật thì nằm ở hướng có địch đang tới nên không thể ra đó. Nếu để anh ấy rời khỏi nhà lúc này thì có thể sa vào tay giặc hoặc đối mặt một mất một còn.
 
Trong phút chốc sinh tử, chị lấy lại bình tĩnh, trao đổi nhanh với cha mẹ tôi rồi quyết định dứt khoát:
- Anh Thống, vào nấp ngay trong “chồ”, nhanh lên! Còn lại để em lo.
 
Chị tôi vừa nói vừa đẩy anh về phía ẩn nấp. Một quyết định quá táo bạo và nguy hiểm, bởi nếu địch phát hiện sẽ đánh đổi mạng sống của cả gia đình.
 
"Chồ" là tiếng địa phương, nó là một hình khối vuông chừng 7 - 8 m3 được đóng bằng khung gỗ to chắc chắn để giữa nhà dưới; có sàn gỗ dày, vách chình bằng đất sét trộn rơm, có 1 cửa lùa bằng 3 tấm ván. "Chồ" rất kín, dùng làm kho đựng nông sản sau thu hoạch.
 
Anh Thống có thoáng do dự, nhưng không còn cách nào khác, phó mặc cho chị và gia đình lo liệu, trong lòng vẫn có một niềm tin họ biết cách đối phó với địch. Rồi anh khẽ kéo quy lát lên đạn khẩu Carbine M2, nhanh chóng thu người lòn vào góc "chồ". Chị tôi cẩn thận nhúng chiếc khăn ướt đưa cho anh bịt mũi, đề phòng trong "chồ" có mùi ẩm mốc hay mùi cay của ớt bột bốc lên gây sặc, ho sẽ bị địch phát hiện. Rồi chị đậy 2 tấm ván cửa “chồ”, mở hờ tấm trên cùng để anh ấy không bị ngộp và để bọn lính khỏi nghi ngờ khi thấy "chồ" đóng kín.
 
Mọi việc xong xuôi, không khí căng như dây đàn. Cả nhà ngồi quanh bàn ăn giả vờ vừa ăn trưa xong, hồi hộp chờ tình huống xấu nhất nếu địch đến soi đèn kiểm tra "chồ" như có lần tôi từng thấy lính Mỹ đã làm như thế trong một trận càn. 
 
Tôi lúc đó còn nhỏ, chừng 8, 9 tuổi gì đó, nhớ lời chị dặn:
- Ai hỏi chi cũng không nói hoặc nói không biết, nghe chưa! Tôi “dạ” ngồi im và hiểu rằng, mình không được hé răng nửa lời, nếu không chị mình, cha mẹ mình sẽ bị bắt, bị đánh đập, tra tấn, cảnh tượng rùng rợn mà mình từng chứng kiến.
 
Ít phút sau, một toán lính hùng hổ xuất hiện trước sân. Cha mẹ tôi cất lời: "chào mấy chú", còn chị tôi thì "chào mấy anh", giọng nghe ngọt xớt. 
 
Tất cả ở bên ngoài canh gác, còn viên chỉ huy cùng một lính nữa bước vào nhà, đảo mắt nhìn quanh rồi hướng về chị tôi, giọng hạch sách:
- Nghe nói dạo này “Việt Cộng” hay về làng lắm phải không cô em?
Chị giật mình, nghĩ thầm hay chúng có "chỉ điểm" và đã biết anh Thống đang ở đây nên đến vây bắt?
 
Vài giây lo lắng thoáng qua, chị bình tâm, cười mỉm trả lời:
- Ngày mô (nào) mấy anh cũng qua đây, Việt Cộng có mà dám! Giọng con gái quê chân chất, ngọt ngào, chị vừa nói vừa mời ngồi, rót nước chè xanh đãi khách. 
 
Vốn là một thôn nữ yêu kiều, duyên dáng, từng làm si mê nhiều chàng trai, trong đó có những quan chức, sĩ quan quân đội và cảnh sát Sài Gòn; chị vui vẻ tiếp chuyện, không một chút biểu lộ cảm xúc. Từ chỗ đi tuần tra đến tán tỉnh, viên chỉ huy kia mềm lòng, không biết rằng mình đang lọt vào ma trận "mỹ nhân kế", không mảy may nghi ngờ trong nhà có “Việt cộng”.
 
Ngồi trong "chồ" chỉ cách vài mét, anh Thống nín thở nghe rõ mọi chuyện. Cuộc viếng thăm bất đắc dĩ kéo dài hơn tiếng đồng hồ, toàn chuyện không đâu nhưng chiều hướng tốt.
 
Thời gian như trôi chậm, cả nhà sốt ruột, mong chúng mau rút đi. Và rồi đến lúc toán lính cũng phải rút về nơi đồn trú vì sợ chiều tối sẽ chạm trán với quân du kích cách mạng. Cuộc chia tay ra vẻ "thân mật" hơn lúc mới đến. Viên sĩ quan chỉ huy lộ nét mặt hớn hở, tươi cười khi được chị tôi ngỏ lời mời đưa:
- Khi mô mấy anh rảnh rỗi thì nhớ ghé nhà em chơi nhé (!). Chị không quên đưa ánh mắt và nửa nụ cười rất duyên.
 
Thoát hiểm trong gang tấc, cả nhà như trút được gánh nặng, thở phào nhẹ nhõm. Một lúc sau, thăm dò thấy đã an toàn, chị tôi đến mở cửa "chồ" nói to:
- Mời anh ni (này) cũng "rút về đồn" cho !
Anh Thống lòn ra, tay phủi bụi trên người, trách yêu :
- Sao em không đuổi tụi hắn đi cho sớm mà còn "tào lao xích bộp" lâu thế !
Cả nhà cùng cười. Trời xẩm tối, chị tìm cách đi nắm tình hình địch rồi quay về hướng dẫn anh Thống thoát ra khu an toàn, không quên làm cơm nắm để anh ấy mang theo cho lúc đói lòng.
 
Sau lần thoát hiểm đó ít lâu, đồn Tân Lệ bị ta tấn công, xóa sổ. Đồn La Vang được địch củng cố thành tuyến phòng thủ trọng yếu bảo vệ thị xã Quảng Trị. Anh Thống chuyển sang hoạt động địa bàn khác. Chị tôi cũng nhận nhiệm vụ mới. Chiến tranh và chia ly, cũng như bao chàng trai, cô gái khác trong thời chiến, cả anh và chị mỗi người một nhiệm vụ, chưa biết bao giờ được gặp lại nhau.
 
Người nữ chiến sĩ an ninh trong lòng địch
 
Cũng như phần lớn con gái trong làng, chỉ được cha mẹ cho đi học biết đọc, biết viết là phải ở nhà làm lụng. Chị tôi học hết bậc tiểu học rổi nghỉ và làm nông cùng gia đình. Nhờ có hoa tay và chút kiến thức, chị học thêm nghề làm nón lá - ở quê thường gọi là "chằm nón", một nghề thủ công lúc nông nhàn. Những chiếc nón lá thông thường và nón "bài thơ" chị làm rất bền và đẹp, ai cũng khen. Tiếng lành đồn xa, khách đặt hàng ngày càng đông, không chỉ giúp gia đình thêm khấm khá mà còn trở thành một nguồn thu nhập ổn định, nhiều người mơ ước. Căn nhà tranh chính 3 gian 2 chái và căn nhà bếp của gia đình tôi như một công xưởng nhỏ, ngày càng trở nên chật chội.
 
Không lâu sau, có lẽ khoảng giữa hay cuối năm 1967, đột nhiên chị tôi nói sẽ bỏ nghề chằm nón, về thị xã học nghề may. Gia đình can ngăn, ai cũng bảo chị đang ăn nên làm ra sao lại bỏ nghề? Nhưng chị vẫn quyết ra đi, cho rằng nghề chằm nón không có tương lai nên cần khởi nghiệp nghề mới.
 
Không ai biết rằng thời điểm đó, chị được Ban An ninh thị xã Quảng - Hà (tức thị xã Quảng Trị và thị xã Đông Hà, tỉnh Quảng Trị lúc đó) giao nhiệm vụ vào hoạt động trong vùng địch, làm đặc tình và là cơ sở bí mật của cách mạng. Người chỉ huy lực lượng an ninh thị xã Quảng - Hà lúc bấy giờ là anh Trương Hữu Quốc, sau này là Thiếu tướng, Giám đốc Công an tỉnh Quảng Trị, rồi ra Bộ Công an làm Tổng Cục trưởng Tổng cục Cảnh sát - Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân (đã nghỉ hưu, nay sống tại quê nhà Quảng Trị).
 
Những năm từ 1967-1972, sống và hoạt động trong lòng địch, giữa chốn thị thành, luôn phải đối mặt với nhiều hiểm nguy, có thể bị lộ tung tích, bị địch bắt, tù đày nhưng chị khôn khéo, không để bị nghi ngờ, phát hiện. Nhờ có nét duyên dáng, dễ thương, chị quen biết với viên thiếu tá quận trưởng quận Mai Lĩnh. Một viên đại úy thủy quân lục chiến quân đội Sài Gòn khác, có vóc dáng cao to, đẹp trai, quân phục rằn ri, nói giọng Nam Bộ cũng thường theo tán tỉnh chị, nhiều lần lái xe Jeep nhà binh nhã ý đưa chị về làng hay đi dạo phố nhưng chị đều khéo léo từ chối. Tôi thì được một đôi lần, sau đó đã bị chị mắng, cấm leo lên chiếc xe Jeep của viên đại úy nọ. Tôi đâu biết sự nguy hiểm rình rập vì tất cả các xe quân sự đều là mục tiêu đánh mìn của du kích.
 
Cũng nhờ sự quen biết với một số quan chức và sĩ quan bên địch, chị đi lại dễ dàng, về làng như con thoi để liên lạc qua hộp thư mật. Chị đi qua các chốt kiểm soát mà không lính nào dám hạch hỏi. Có lần, chúng lập trạm kiểm soát, ngăn cản, không cho dân làng vào thị xã vì cho rằng họ đi mua hàng tiếp tế cho "Việt cộng". Cha tôi đi khám bệnh cũng bị chặn lại. Viên thiếu tá quận trưởng biết được đã lệnh cho đám lính, chúng khép nép mời ông qua. Cũng vì vậy mà chị và gia đình tôi bị bà con dân làng, kể cả người thân, bĩu môi, nghi ngờ làm "chỉ điểm", "gián điệp" cho địch. Cha mẹ tôi khổ tâm lắm nhưng chị bảo ai nói gì mặc kệ họ.
 
Con gái có thì, cha mẹ tôi nhiều lần giục chị lấy chồng, ép gả cho một thanh niên đã giải ngũ ở làng bên nhưng chị nhất mực từ chối. Chị nói còn trẻ, cứ từ từ, không nói ra nhưng trong trái tim chị đã có hình bóng một anh cán bộ cách mạng nọ - người cùng chí hướng mà có lẽ chị đã trao gửi mối tình đầu.
 
Lần cuối cùng nhìn thấy hình bóng chị
 
Thời gian trôi qua, tháng 5-1972, toàn tỉnh Quảng Trị được giải phóng. Chị tôi hoàn thành nhiệm vụ của người chiến sĩ đặc tình từ thị xã trở về, cùng lực lượng du kích, bộ đội địa phương lo ổn định cuộc sống cho dân, củng cố hầm hào, công sự tránh bom pháo của giặc. Vào một buổi chiều, chị nói với cha mẹ tôi: "Con đi công tác, tối nay con về muộn".
 
Thời điểm đó còn gọi là "Mùa hè đỏ lửa" ở Quảng Trị. Mỹ và quân đội Sài Gòn sau khi thất thủ đã dùng không quân và hải quân đánh phá vô cùng ác liệt để tái chiếm khu vực này.
 
Chập tối 24-5-1972, chị cùng với mấy anh bộ đội, du kích lên chiếc xe quân sự GMC phóng đi. Tôi đứng dõi theo mà có ngờ đâu rằng đó cũng là lần cuối cùng tôi nhìn thấy hình bóng người chị thân yêu. 
 
Từng loạt bom bay B.52 nổ chát chúa. Tiếp đó là những trận bom của máy bay cường kích F.4 bổ nhào ở khu vực Cầu Đúc - chiếc cầu bắc qua con suối đầu làng. Cả nhà tôi xuống hầm trú ẩn, thấp thỏm lo âu. Rồi gia đình bàng hoàng đau xót khi biết chú ruột của tôi (là xã đội trưởng) đã hy sinh; còn chị tôi bị thương đang được đưa tới trạm xá tiền phương của quân giải phóng.
 
Cha tôi bất chấp hiểm nguy giữa bom đạn, chạy bộ đến trạm để hỏi tình hình vết thương của chị nhưng được yêu cầu trở về hầm trú ẩn ngay lập tức. Suốt đêm đó, cả nhà thao thức, mẹ tôi khóc ròng. Vết thương quá nặng, rạng sáng hôm sau, gia đình tôi đau đớn nhận tin sét đánh: Chị đã mất. Lời từ biệt "tối nay con về muộn", như lời trăng trối sau cùng của chị, khứa mãi vào nỗi lòng tôi.
 
Chị đã hy sinh lúc tuổi mới vừa tròn 23. Ở tuổi đẹp nhất thời con gái, chị ra đi mãi mãi trong niềm tiếc thương vô hạn của gia đình, người thân, bạn bè, đồng chí...
 
Nhà nước tôn vinh, công nhận Liệt sĩ, cấp Bằng Tổ quốc ghi công và truy tặng chị Huân chương Kháng chiến hạng Ba. Cũng từ đó, gia đình tôi biết rõ hơn vì sao chị không chịu lấy chồng, vì sao chị nhất quyết vào thị xã làm nghề may...
 
Thời gian trôi qua, nỗi tiếc thương tưởng đã nguôi ngoai nhưng mỗi lần nhớ đến chị, nước mắt tôi lại tuôn rơi. Hằng năm, đến ngày giỗ chị, tôi chọn 23 bông hồng trắng dâng chị, để tưởng nhớ, tự hào về người chị yêu dấu đã hy sinh cả thời thanh xuân cho đất nước, cho quê hương.
 
Ảnh 2: Bằng Tổ quốc Ghi công của Liệt sĩ Nguyễn Thị Thủy
 
Tháng Bảy tri ân
 
Chiến tranh ác liệt triền miên, không biết bao lần
vào sinh ra tử. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, anh Đào Xuân Thống mới biết tin chị tôi đã hy sinh trong cuộc chiến đấu “mùa Hè đỏ lửa” Quảng Trị năm 1972. Rồi anh tiếp tục bị cuốn theo những nhiệm vụ mới khó khăn, vất vả từ miền Tây Bình - Trị - Thiên đến các chuyên án an ninh, chính trị vì sự bình yên của đất nước.
 
“Nửa thế kỷ trôi qua, tìm lại ký ức, Ngày 27 tháng Bảy năm 2022, anh Thống đã về nơi làng quê Như Lệ xưa, đến nơi chị Thủy yên nghỉ, thắp một nén nhang lên mộ người đồng chí - Liệt sĩ Nguyễn Thị Thủy - mà suốt 50 năm qua anh luôn đau đáu trong lòng nỗi tiếc thương.
“Ai viết tên em thành Liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi em: đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.”
 
Giọng trầm buồn, anh nghẹn ngào thốt lên mấy câu thơ trong bài thơ Núi đôi của Vũ Cao, rồi nói với tôi rằng: Cậu viết gì thì viết, nhưng bài học lớn nhất được minh chứng từ thực tiễn trong hơn 50 năm tôi làm cán bộ cách mạng và công tác trong ngành Công an, tôi còn được sống cho đến hôm nay, đó là bài học: Nhờ có dân tin, dân yêu, dân chở che mới còn mình. Trong công cuộc chống “giặc nội xâm” và xây dựng đất nước hôm nay, bài học đó còn nguyên giá trị./.
 
 
Ảnh 3: Đại tá Đào Xuân Thống thăm mộ Liệt sĩ Nguyễn Thị Thủy, người đã từng che dấu
anh khỏi bị địch bắt vào thập niên 60 thế kỷ trước - nhân kỷ niệm 75 năm ngày thương binh liệt sĩ 27.7